Trong sách 'Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỷ', quyển 122 của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi rõ vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu với triều đình:
"... Xin từ năm nay trở về sau mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ giáp thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng 2 thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình".
Sau đó, vua Minh Mạng chuẩn y lời tâu của Bộ Công, sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi, đồng thời cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến Hoàng Sa dựng. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc dòng chữ:
"Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ".
Cả 2 sự kiện trên được thực hiện vô cùng thuận lợi mà không có bất kỳ sự tranh chấp, can thiệp của bất kỳ quốc gia nào khác.
Bên cạnh việc cắm mốc chủ quyền, trước đó 1 năm, năm Minh Mạng thứ 16-1835, nhà vua còn cho xây miếu, dựng bia chủ quyền. 'Đại Nam thực lục' ghi lại như sau:
"Bãi Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi có một chỗ nổi cồn cát trắng cây cối xanh um, giữa cồn cát có cái giếng, phía Tây Nam có miếu cổ, có bia khắc bốn chữ "vạn lý ba bình". Năm ngoái - tức năm Minh Mạng thứ 15 (1834) vua toan dựng miếu, lập bia ở chỗ ấy bỗng vì sao không làm được. Đến đây mới sai cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật liệu đến đây dựng miếu (cách tòa miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước xây cái bình phong. 15 ngày làm xong rồi về".
Comments