Nếu xét riêng về lĩnh vực chửi bậy, chửi thề anh em Đông Lào nhận nhì thì thế giới chẳng đâu dám nhận nhất.
Âu Mỹ câu chửi thề bậy nhất và phổ biến nhất chỉ có mỗi câu "fuck you". Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào gay gắt nhất đi chăng nữa thì cũng chỉ có mỗi "fuck you" chấm hết. Việt sub chuẩn nghĩa là "giao hợp bạn", "làm tình bạn".
Nhưng Việt Nam chửi thề chả ai chửi là "giao hợp bạn, làm tình bạn" cả. Mà sẽ là "đmm", "đcmm", "đm", chưa kể còn thay từ "mẹ" bằng: "anh", "chị", "em", "cô", "dì", "chú", "bác", "ông bà", "cụ kỵ", "tổ tông", nói chung có thể lôi tất cả họ hàng hang hốc dây mơ rễ má, mồ mả ra để chửi nhau.
Ở trong một số hoàn cảnh gay gắt hơn, thì sẽ kèm vào luôn tất cả các bộ phận sinh dục hay phụ khoa như: cđlcmm, lmm, đb, cc, *ú b, đl, *ú l...
Để nói về tinh hoa chửi bậy của người Việt bằng tiếng Việt, anh em có thể tìm lại các video chửi "trộm bắt gà" của các bà già hồi xưa, chửi thành bài rất dài và nói thật là không còn gì có thể bậy bạ hơn được nữa.
ếu xét riêng về lĩnh vực chửi bậy, chửi thề anh em Đông Lào nhận nhì thì thế giới chẳng đâu dám nhận nhất.
Về văn minh văn hoá
Vậy thì nguồn gốc của những câu chửi thề ở trên xuất phát từ đâu và có từ bao giờ, tại sao nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay phổ biến trong xã hội ngoài đời thực tế chứ không chỉ trên không gian mạng, và chắc chắn trong tương lai nó vẫn sẽ còn lưu truyền muôn đời.
Ngày nay chúng ta chỉ có thể hiểu được qua loa một phần nào đó việc lưu truyền, nó vẫn tồn tại phổ biến trong xã hội là do học truyền miệng nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ người này qua người khác, không chỉ là học ngoài xã hội, mà thậm chí trong cả một gia đình.
Việc các câu chửi thề vẫn được bảo lưu và truyền từ đời này qua đời khác như vậy thì xét về góc nhìn văn minh, văn hoá, nó có phải vấn đề gì đó dung tục, tục tĩu tới mức kinh khủng khiếp hoảng hốt quá hay không. Và nếu có thì ở đây ai là người có lỗi và phải chịu trách nhiệm về vấn đề này?
Để trả lời câu hỏi trên không dễ, trước tiên chắc phải nhờ các sử gia của Việt Nam, và sau đó trách nhiệm nếu cần được quy và truy thì đầu tiên phải là những người làm về giáo dục và văn hoá. Chứ một khi cả xã hội như vậy mà lại chụp mũ, kết tội cho một vài cá nhân hay một nhóm người nào đó, hay chỉ nói tới mỗi "không gian mạng" là hoàn toàn thiếu chính xác và không công bằng khi mà đó cũng chỉ là những "nạn nhân" kế thừa lại những gì được dân gian lưu truyền từ đời này qua đời khác mà thôi. Không gian mạng phản ánh thực tế xã hội chứ nó không tự sinh ra. Đó không phải là những thứ vừa mới xuất hiện trong thời đại hiện nay của chúng ta.
Muốn "dọn rác" hay làm sạch không gian mạng, trước tiên hãy dọn rác và làm sạch những vấn đề trên mình nêu ra ở ngoài xã hội thực tế đi đã. Liệu chúng ta có làm được không?
Rác đến từ dân trí và ý thức kém. Không phải nhìn đâu xa như bên Nhật, Singapore, dân ra đường người ta có vứt rác khạc nhổ, ỉa bậy đái bậy bao giờ không. Thậm chí thấy rác người dân người ta còn nhặt bỏ vô thùng rác hoặc gom lại cho gọn gàng sạch sẽ. Vậy thì dân trí và ý thức kém là do ai, từ đâu? Những ai mới là người phải trả lời những câu hỏi này?
Hết chuyện "dọn rác".
Tại sao Việt Nam lại chửi bậy vô địch thế giới?
Giờ đến phần của mình góp vui trả lời hộ anh em một chút, theo góc nhìn lịch sử của mình thôi đã nhé. Mình dân chuyên Toán nhưng lại thích thơ thẩn, giờ đá tí thơ Đường anh em thư giãn trước khi vào việc cho thoáng đầu đã nhé.
Chúng ta hãy cùng ngược sử một chút, đây là vấn đề khó cần tư duy và trí tuệ hơn mới hiểu được.
"Biệt Nhân tứ thủ kỳ nhị" - Nguyên tác: Vương Bột
" 別人
四首其二
王勃
江山風煙積
山幽雲霧多
送君南浦外
還望將如何 "
"Biệt Nhân tứ thủ kỳ nhị"
"Giang sơn phong yên tích
Sơn u vân vụ đa
Tống quân Nam Phố xứ
Hoàn vọng tương như hà."
Vương Bột (王勃) (650–676), tự Tử An, người Long Môn, Giáng Châu (ngày nay là Hà Tân, Sơn Tây) thời nhà Đường. Vương Bột được xem là một trong "Sơ Đường tứ kiệt" (bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường), 3 nhà thơ còn lại là: Dương Quýnh (杨炯), Lư Chiếu Lân (卢照邻) và Lạc Tân Vương (骆宾王).
Tháng 8 năm 676, trên đường trở về từ chuyến viếng thăm cha mình khi đó đang bị giáng chức làm huyện lệnh tại Giao Chỉ, ông bị chết đuối trên biển. Mộ phần của ông hiện vẫn còn ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Sự liên hệ vô cùng sâu sắc giữa Việt Nam và Trung Hoa
Lịch sử Trung Hoa và Việt Nam liên quan chặt chẽ với nhau từ hàng nghìn năm nay. Trước đời nhà Tần đã có sự di cư qua lại của người Bách Việt (không phải người Việt Nam anh em đừng hiểu nhầm hay nhận vơ nhé) sống rải từ bắc Việt Nam men ven biển tới tận mạn Chiết Giang, miền Nam Trung Hoa và một số ít vùng rừng núi, nói chung là ở mạn phía Nam sông Dương Tử. Những sự di cư qua lại này rất nhỏ lẻ và hạn chế vì từ mạn bờ nam sông Dương Tử mà sang Bắc Việt Nam có rất nhiều núi non, sông nước hiểm trở, khí hậu thời tiết lại rất khắc nghiệt (đó là lý do trong suốt chiều dài lịch sử, mỗi khi quân Tàu mà sang tới miền Bắc Việt Nam thường chưa cần đánh đấm gì đã dặt dẹo ốm đau chết toi mất phân nửa) nên chủ yếu là dân làm nông nghiệp di cư đi tìm vùng đất canh tác mới khi ở bên Hoa Nam lũ lụt hoặc hạn hán, mất mùa họ dạt tới bắc Việt.
Từ thời Xuân Thu-Chiến Quốc, Tần, Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều, Tuỳ, Đường... là một lịch sử nội chiến, chiến tranh liên miên tranh quyền đoạt vị vô cùng khốc liệt không ngừng nghỉ, mỗi lần chiến bại thì những kẻ thua cuộc lại dạt vòm về phía Nam, cứ thế xa dần khỏi lãnh thổ Trung Hoa bị cai quản của bên chiến thắng, dạt đến tận mảnh đất xa xôi hình con giun, và khi khi dạt vòm đến đâu thì phe chiến bại, dù là chiến bại nhưng với kỹ thuật quân sự phát triển cao hơn các vùng bản địa toàn nông dân cả vượn núi, nên cùng tàn quân họ lại tiếp tục oánh phá cướp bóc lập ra địa bàn hoạt động mới một cách dễ dàng, ủ mưu chờ ngày báo thù hoặc có khi không có cơ hội báo thù nào hết mà ở đó cả đời luôn.
Bắt đầu từ đời Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung hoa lập ra nhà Tần (221 TCN), đã phát minh ra hình phạt lưu đày.
Có 2 hình thức lưu đày, anh em xem phim Tàu để ý sẽ thấy. Những cảnh mà 2 anh lính xâu một lũ phạm bằng sợi dây mấy chục thằng bị dong đi lầm lũi vật vờ, bọn này là phạm kiểu trộm chó trộm gà, méo chữ nghĩa và đi đày ở xứ gần, chỉ cách quê tầm ba ngàn dặm ngộ xá hồi gia. Hán cao tổ Lưu Bang làm lính thú và dong cái đám đó đi, giữa đường ngài cởi mẹ nó xích cho bọn đó rồi ngài dựng nghiệp Hán từ đó.
Còn loại thứ 2 là phạm cao cấp. Những cảnh mà chỉ có 1 thằng phạm và 2 anh lính quản thúc đi cùng thì đó là thằng phạm có nhiều chữ, kiểu quan lại tham nhũng hoặc lỡ làm mếch lòng sếp lớn hay phốt phủng gì đó. 2 anh lính gọi là lính thú, lính này cũng giống thằng phạm nốt mà méo biết chữ, thường là bọn du đãng ở làng xã, bọn nợ thuế đinh, du thủ du thực. Hình thức thứ 2 này là đày đi xa tít tắp, đi biệt xứ vĩnh viễn méo cho về quê (tiếng Nho viết là: "Lưu biệt xứ, ngộ xá bất nguyên").
Anh em quan lại ở bờ Nam sông Dương Tử (Hoa Nam) thì đày đi Cao Ly (Triều Tiên). Anh em bờ bắc (Hoa Bắc) thì đày đi Giao Chỉ (miền bắc Việt Nam, lúc đó là một quận của nhà Tần). Sang đến xứ mới thì làm chức quan lìu tìu rồi sống cả đời ở đó méo được về.
Cho đến thời kỳ Pháp bắt đầu chiếm Việt Nam, khi đó bên Trung Hoa là thời nhà Thanh sang loạn Thái Bình Thiên Quốc, Bắc Việt tràn ngập cướp người Hoa, vua Tự Đức nhà Nguyễn khi đó phân loại anh em cướp là Hải phỉ = cướp biển, Thủy Phỉ = cướp sông hoặc cửa biển, Địa Phỉ = cướp cạn. Thanh địa cổ phỉ và Thanh địa dật phỉ là cướp dạt từ nhà Thanh sang. Anh em cướp cờ Vàng (hoàng kỳ) cờ Đen (hắc kỳ) và cờ trắng (hãm kỳ). Nói chung khi đó nhà Nguyễn hoàn toàn mất kiểm soát mạn bắc kỳ vì ở đây toàn đầu trộm đuôi cướp hung hãi vãi cả hà.
Tóm lại suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm như vậy, mảnh đất xứ giun luôn là nơi dạt vòm của đám quan lại mất nết, trộm cướp, thổ phỉ, tướng lĩnh, lính lác thua trận, nói chung toàn là đám hư thân mất nết từ Trung Hoa chạy dạt vòm sang rồi cắm rễ sinh sôi nảy nở, hoà huyết, giao lưu, giao phối, giao hợp hưởng xướng các kiểu với người bản địa.
Ngày này với sự phát triển về khoa học, xét về mặt ADN gen di truyền, những công trình nghiên cứu khoa học mới nhất đều chứng minh cho thấy sự hoà huyết giữa ng bản địa và những ng di cư dạt vòm Trung Hoa tạo thành những con người như hiện nay (Kinh tộc), tất nhiên gen không thể giống nhau 100% nhưng có thể nói là người Kinh hiện nay có nhiều mã gen giống với người Trung Hoa, đặc biệt là nhóm Bách Việt (Hoa Nam) do đặc thù về lịch sử và địa lý.
Đó cũng là lý do phần nào giải thích cho chúng ta hiểu tại sao dòng máu chảy trong người Việt Nam hiện nay luôn có sự máu chiến, húng chó, và cái sự tục tĩu, bậy bạ vô địch thế giới có lẽ cũng bắt nguồn từ những vấn đề sâu xa của lịch sử như trên.
Comments