Bài viết được thực hiện dưới góc nhìn của một người Trung Quốc, nên sẽ có những nhận định chủ quan của họ về việc nhà Minh xâm lược nước Việt. Bỏ qua những thông tin như vậy, bài viết đã cung cấp khảo cứu quan trọng và khách quan về Nguyễn An và Tử Cấm Thành.

Câu chuyện Nguyễn An xây Tử Cấm Thành đã quá nổi tiếng đối với người Việt, những quan điểm về câu chuyện này được chia thành hai hướng: xu hướng thứ nhất là ca ngợi, đề cao, xu hướng thứ hai là phủ nhận, cho rằng đây là một thông tin bịa đặt, không đúng sự thực. Nhưng nhìn chung, cả hai xu hướng này đều thiếu sự xác minh chi tiết những thông tin trong sách sử Trung Quốc. Vì lý do đó, nên chúng tôi đã bắt tay vào tìm kiếm tư liệu về vấn đề này, nhằm xác minh và làm rõ thông tin về vấn đề Nguyễn An xây Tử Cấm Thành.
Trong quá trình tìm kiếm thông tin, chúng tôi đã tìm thấy bài nghiên cứu: Nguyễn An, hoạn quan gốc An Nam thời Minh, và việc xây dựng thành Bắc Kinh 明代安南籍宦官阮安与北京城之营建 của Vương Siêu Quần 王超群, bài viết đã khảo cứu toàn diện và chuyên sâu các thông tin về vấn đề Nguyễn An xây dựng Tử Cấm Thành. Những thông tin trong bài viết này đã khẳng định, Nguyễn An, một hoạn quan gốc Việt tài năng, liêm chính, đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là cốt yếu trong việc xây dựng Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh, cả giai đoạn đầu lẫn việc tu sửa, xây mới các công trình giai đoạn sau. Ông là tổng thiết sư và là người quy hoạch chủ yếu của thành Bắc Kinh.
Bài viết cũng cung cấp nhiều thông tin giá trị khác, như việc những hoạn quan gốc Việt bị bắt về nhà Minh đã tạo dựng được thế lực lớn trong triều đình nhà Minh, tiêu biểu nhất là Hưng An, Kim Anh, Phạm Hoằng, Lê Trừng, Nguyễn An, cũng như xác định bối cảnh để Nguyễn An được trọng dụng, có nền tảng để có thể phát huy năng lực của mình trong những công trình kiến trúc, trị thủy của nhà Minh.
Dưới đây là bản dịch chi tiết bài viết Nguyễn An, hoạn quan gốc An Nam thời Minh, và việc xây dựng thành Bắc Kinh 明代安南籍宦官阮安与北京城之营建.
Tóm tắt
Nguyễn An, hoạn quan gốc An Nam thời Minh, có cống hiến đặc biệt trong việc xây dựng thành Bắc Kinh, là người quy hoạch chủ yếu và tổng thiết sư của công trình này, công huân rất rõ rệt. Nhưng việc Nguyễn An từ một chức hoạn quan có thể được giao gánh vác trọng trách ấy, thì ngoài những nhân tố có tương quan mật thiết như tài năng kiến trúc, sự tu dưỡng tính cách và kinh nghiệm chốn cung đình của ông, cục diện chính trị cởi mở và bao dung thời Minh sơ cũng cung cấp cho ông cơ hội cực lớn, phản ánh tính đặc thù của hoàn cảnh chính trị đương thời. Bài viết này sẽ nói về quá trình bắt đầu xây dựng thành Bắc Kinh, so sánh nhiều nguồn tư liệu như chính sử, thực lục và các văn tập, đồng thời đối chiếu với những đặc trưng trong bối cảnh xã hội và cục diện chính trị nhằm phân tích xuất thân và nguyên do thành công của Nguyễn An, cũng như nghiên cứu sâu và toàn diện về quyền thế của hoạn quan và quan hệ mật thiết với cục diện chính trị. Đồng thời, thành công của Nguyễn An sẽ được lấy làm ví dụ để tiến thêm một bước trong việc làm rõ vai trò lịch sử của hoạn quan và khả năng phát huy tác dụng trọng yếu ấy.
Xây dựng thành Bắc Kinh là công việc trọng yếu của triều đình Minh buổi sơ kì, tốn kém nhiều thời gian, từ lúc khởi công thời Vĩnh Lạc cho đến lúc tương đối hoàn tất thời Chính Thống, và về sau lại tu bổ, sửa sang không dứt. Có rất đông người tham dự vào công trình này, bao gồm đại thần, nội thị, thợ thuyền, quân lính, nhưng trong đó người có thân phận đặc thù nhất và cống hiến lớn nhất lại là một hoạn quan ngoại tịch đến từ An Nam – Nguyễn An. Thậm chí có thể nói rằng, trong các giai đoạn khởi công và hoàn thiện thành Bắc Kinh, Nguyễn An gánh vác và lãnh đạo phần lớn công trình này, nên có thể gọi là người quy hoạch chủ yếu và tổng thiết kế sư của thành Bắc Kinh, công lao rất vĩ đại.
Giới học giả trong nước đã chú ý và nghiên cứu về sự nghiệp của hoạn quan An Nam Nguyễn An từ sớm, song đều chưa toàn diện, như cuốn Minh đại văn hóa nghiên cứu của Nam Bính Văn và Hà Hiếu Vinh chỉ giới thiệu sơ qua về thân thế và cuộc đời của Nguyễn An, mà đặt nặng về khẳng định cống hiến và công lao của ông đối với việc xây dựng thành Bắc Kinh và kĩ thuật kiến trúc thổ mộc của Trung Quốc. Sách Minh triều hoạn quan của Vương Xuân Du, Đỗ Uyển Ngôn thì có một chương ngắn về Nguyễn An, nhưng phần về cuộc đời của ông tương đối sơ lược, mà chú trọng thuật lại quá trình Nguyễn An đôn đốc xây thành Bắc Kinh và trị thủy sông Dương Thôn. Kinh hoa tập của Triệu Kỳ Xương cũng đề cập đến Nguyễn An, nhưng đa phần nhấn mạnh vào tác dụng và công lao của việc xây dựng cung điện ở Bắc Kinh và trị thủy đường sông, rồi mới quay về chuyên môn là thảo luận thời điểm Nguyễn An nhập cung và các phương diện về quan hệ chốn cung đình. Ngoài ra, sách Trung ngoại văn hóa giao lưu sử do Hà Phương Xuyên chủ biên khi đề cập đến quá trình giao lưu văn hóa Trung-Việt đã đàm luận đến việc thái giám Nguyễn An phụ trách xây dựng cung điện và hoàng thành Bắc Kinh, đồng thời ra sức tán dương cống hiến xuất sắc của ông trong lĩnh vực xây dựng công trình và giao lưu văn hóa hai nước.
Về phương diện luận văn, cũng có một số thành quả nghiên cứu. Trương Tú Dân trong bài Minh thái giám Giao Chỉ nhân Nguyễn An doanh kiến Bắc Kinh khảo đã khảo chứng khá tỉ mỉ về việc xây dựng kinh sư của Nguyễn An, và nhận định rằng ông là người quy hoạch và đảm đương việc xây dựng cung điện, thành trì, phủ thự ở thành Bắc Kinh. Bài Minh đại đích Trung Việt văn hóa giao lưu của Hà Hiếu Vinh lại đem Nguyễn An và việc xây dựng Bắc Kinh gộp chung vào phạm trù giao lưu văn hóa Trung-Việt, và tán dương ông là “kiến trúc sư kỳ tài”. Ngoài ra, Minh đại thái giám Nguyễn An của Triệu Kỳ Xương, Minh đại hoạn quan trung đích phi Hán tộc thành phần của Đỗ Thường Thuận, Minh đại Trung-Việt lưỡng quốc lịch sử văn hóa giao lưu trung đích trọng yếu nhân vật – Nguyễn An của Mã Giao đều giới thiệu về cuộc đời và hoạt động của Nguyễn An.
Có thể thấy rằng, giới học thuật tuy chú ý đến thân phận và cống hiến trong lịch sử của Nguyễn An, nhưng xét về tổng thể thì thành quả nghiên cứu còn ít, lại chủ yếu lấy việc xây dựng thành Bắc Kinh và giao lưu văn hóa Trung-Việt làm trung tâm để triển khai thảo luận, còn trên các phương diện khác vẫn sơ lược và thiếu sót. Người viết dựa trên cơ sở của người đi trước, sẽ so sánh nhiều nguồn tư liệu chính sử, thực lục và văn tập, rồi căn cứ vào đấy mà phân tích quá trình nhập cung của Nguyễn An, đặc trưng tính cách và cuộc đời của ông, đồng thời kết hợp với bối cảnh xã hội, lịch sử đương thời để tiến thêm môt bước trong việc nghiên cứu nguyên do ông thành công.
Hoạn quan ngoại tịch đến từ An Nam
Khi triều Minh mới thành lập, chính quyền nhà Trần ở An Nam ngày càng suy yếu, nội loạn không dứt. Đầu thời Vĩnh Lạc, việc soán quyền đoạt vị của nguyên quốc tướng An Nam là Lê Quý Ly (sau đổi họ thành “Hồ”) bị bại lộ, khiến cho triều đình Minh cực kì bất mãn. Tháng 3 năm thứ 4 (1406), Thành Tổ sai Quảng Tây Đô đốc thiêm sự Ngô Trung hộ tống cháu của tiền An Nam vương là Thiên Bình về nước kế vị, nhưng bị phục binh của con trai Hồ Quý Ly là Hồ Đê đánh úp giữa đường tại Kê Lăng quan. Trần Thiên Bình bị bắt giết, bọn Ngô Trung cũng thua chạy. Khi tin tức truyền đến kinh sư, “hoàng đế cả giận, triệu Thành quốc công Chu Năng đến bàn mưu, quyết ý đánh dẹp.” Tháng bảy, Chu Năng và Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Tân Thành hầu Trương Phụ vâng mệnh đốc quân Nam chinh. Đại quân thế như chẻ tre, đi đến đâu đều thắng, trong vòng 10 tháng đã bình định phản loạn An Nam, bắt sống cha con họ Lê. Sau đấy, vì vương tộc họ Trần không còn hậu duệ, Thành Tổ bèn đổi An Nam thành quận Giao Chỉ. An Nam do vậy bị sáp nhập vào bản đồ Trung Quốc.
Tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 6, đại quân Nam chinh trở về triều. Xét Minh Thái Tông thực lục chép rằng: “[Ngày Đinh Hợi], Giao Chỉ Tổng binh quan Tân Thành hầu Trương Phụ, Tây Binh hầu Mộc Thạnh đem quân về kinh. Bọn Phụ dâng địa đồ Giao Chỉ. Đất này đông tây cách nhau 1.760 lí, nam bắc cách nhau 2.800 lí”. Ngoài ra, Trương Phụ còn đem về rất nhiều chiến lợi phẩm: “bắt hơn 2.087.500 người Man; hơn 235.900 voi, ngựa, trâu; 1.360 vạn thạch gạo; hơn 8.670 chiếc thuyền; 2.539.800 quân khí”, trong đấy có những thiếu niên tuấn tú bắt được lúc chinh phạt An Nam để đưa về phục vụ tại cung đình. Về chuyện Trương Phụ bắt trẻ con tại An Nam, bộ chính sử của Việt Nam là Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: “Năm Khai Đại thứ 4 triều Hán Thương (tức năm Vĩnh Lạc thứ 4), người Minh vào Đông Đô, bắt đàn bà, cướp ngọc lụa, kiểm kê lương thực, chia quan làm việc, chiêu tập lưu dân để làm kế lâu dài, hoạn nhiều bé trai và thu tiền đồng các xứ đưa về Kim Lăng”. Minh Thái Tông thực lục cũng chép rằng vào ngày Quý Tỵ tháng 2 năm thứ 5, Vĩnh Lạc đế sắc Trương Phụ “trong cõi ấy có kẻ sĩ tài đức hiền trí nào có một tài đủ nêu, có một nghề đủ dùng, thì tìm kiếm rộng khắp, dùng lễ đối đãi rồi đưa đến kinh”. Rõ ràng đương thời có người An Nam bị đưa về kinh sư. Minh sử soạn thời Thanh có đề cập sơ lược về việc này, rằng “thời Vĩnh Lạc, Anh quốc công Trương Phụ đem trẻ con tuấn tú về, tuyển làm hoạn quan, Hoằng và bọn Vương Cẩn, Nguyễn An, Nguyễn Lãng ở trong số đấy”. Câu này chép ở truyện về hoạn quan An Nam, đủ làm bằng chứng cho thấy Trương Phụ đem thiếu niên An Nam về sung làm nội thị.
Vốn là một trong những đứa trẻ An Nam theo chân đoàn quân Nam chinh về triều, Nguyễn An từ đấy được sai khiến thường niên trong hoàng thành, chung cuộc cả đời chưa từng trở về cố hương. So với các hoạn quan đồng hương tỏa sáng rực rỡ trên chính trường là Hưng An, Kim Anh và Phạm Hoằng, Nguyễn An tuy được nhiều đời đế vương sử dụng, tiếp nhận không ít sự vụ trọng đại, nhưng suốt cả đời làm việc rất kín tiếng, chưa từng mảy may vượt quá khuôn phép. Chính vì vậy, sử liệu viết về Nguyễn An chỉ có vỏn vẹn mấy câu. Ví dụ Minh sử chỉ chép rằng: “Nguyễn An có tài nghệ, vâng mệnh Thành Tổ xây dựng thành trì, cung điện và phủ thự trăm ty ở Bắc Kinh, trông coi ước lượng đều đúng quy chế, Công bộ vâng lệnh làm theo mà thôi. Thời Chính Thống, trùng tu ba điện, trị thủy sông Dương Thôn, đều có công. Thời Cảnh Thái, trị thủy sông Trương Thu, mất dọc đường, trong túi có chưa đầy mười đồng”. Sách Thủy đông nhật ký của Diệp Giám thời Minh đóng vai trò trọng yếu trong ghi chép về Nguyễn An, trích dẫn như sau:
“Thái giám Nguyễn An còn tên là A Lưu, người Giao Chỉ. Là người thanh liêm trong sạch, thạo mưu hoạch, rất giỏi về xây dựng. Trong việc xây dựng thành trì, chín cửa, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ, công sở các ty ở Bắc Kinh và trị thủy các sông như Dương Thôn, ông đều có công lao lớn, thuộc hạ ở Công tào nhất nhất nghe lệnh làm theo mà thôi. Năm cuối đời, đê sông Trương Thu bị vỡ, lâu ngày không trị được, nên ông lại thừa mệnh đi, rồi mất dọc đường. Ngày thường được ban thưởng gì đều đem cho, là vị quan đứng trên tài lộc, không giữ lại chút gì, nên các trung quan cho ông là người không thể thay đổi được. Ông từng làm bài “Doanh kiến kỷ thành thi” khắc bia, danh nhân hay quan lớn đương thời không ai không biết. Khi sắp truyền ra, thì vì một lời của Vương Chấn mà ngưng lại. Chấn trong các việc khác đều có dựng bia, chỉ cản trở mỗi lần ấy, thì chẳng phải vì không muốn khoe khoang mà chỉ vì đố kỵ thôi.”
Việc Diệp Giám đánh giá Nguyễn An rất cao, cho thấy ông đã nhận xét khách quan, không vì thân phận ngoại tịch và nội thị của Nguyễn An mà có ý hạ thấp, cũng không a dua theo lời người đi trước. Từ đoạn văn ngắn này, không khó để nhận thấy rằng Nguyễn An không chỉ có tài mưu hoạch hơn người mà đức hạnh cũng khiến người ta phải xưng tụng, nên mới được các đời đế vương như Thành Tổ coi trọng, ủy cho trách nhiệm xây dựng thành Bắc Kinh. Nhưng cần chú ý rằng, đoạn văn này ngoài tán dương công lao của Nguyễn An ra còn đặc biệt lấy hoạn quan có tiếng xấu thời Chính Thống là Vương Chấn làm phản diện, chế giễu lòng dạ hẹp hòi, đố kỵ tài năng của Vương Chấn, một lần nữa chứng minh phẩm chất cao thượng và công lao vẻ vang của Nguyễn An.
Các nguồn sử liệu không đề cập đến tuổi tác của Nguyễn An khi nhập cung, song chúng ta có thể lần tìm dựa theo thông tin về đồng hương của ông là Kim Anh và Hưng An. Căn cứ khảo chứng hiện đại về minh văn trên mộ chí của Kim và Hưng, cũng như tài liệu địa khoán chôn cùng ông này, có thể suy đoán tương đối rằng Kim Anh đến Trung Hoa vào năm 13-14 tuổi, còn Hưng An vào khoảng 18 tuổi. Vì vậy, một thiếu niên An Nam với độ tuổi gần giống như Nguyễn An, khi nhập kinh vào đầu thời Vĩnh Lạc hẳn sẽ chưa quá 20 tuổi. Trong vòng 10 năm sau, Nguyễn An được Thành Tổ để mắt đến, và vâng mệnh xây dựng thành trì, cung điện và phủ thự các ty ở Bắc Kinh:
“Từ thời Vĩnh Lạc đã sai Thái giám Nguyễn An xây thành trì, cung điện và phủ thự các ty ở Bắc Kinh, Công bộ chỉ vâng mệnh làm theo mà thôi”.
Thậm chí đến thời Chính Thống, Nguyễn An một lần nữa vâng mệnh trùng tu thành Bắc Kinh, đồng thời gánh vác trách nhiệm trị thủy đường sông, cho thấy tài cán của ông trên phương diện kiến trúc và thủy lợi đã được thừa nhận. Có thể phỏng đoán rằng, trong mấy chục năm từ đầu thời Vĩnh Lạc đến đầu thời Chính Thống, Nguyễn An liên tục tiếp xúc và học tập rất nhiều kiến thức về kiến trúc và thủy lợi. Trong giai đoạn này, có khả năng ông đã tham dự vào một số công trình nhỏ, để rồi làm cơ sở gánh vác công việc quy hoạch kiến thiết thành Bắc Kinh dưới hai triều Vĩnh Lạc, Chính Thống.
Lúc mới nhập cung, địa vị và thân phận của Nguyễn An tương đối rắc rối, vừa là tù binh ngoại tịch, vừa có thân phận hoạn quan. Tuy nhiên vì nhà nước Minh bấy giờ ra sức mở rộng cương vực, tích cực chiêu mộ nhân tài nước ngoài, đối với thần dân phi Hán tộc cũng không chịu sự kỳ thị đặc biệt nào, nên tù binh đến từ nước chiến bại như An Nam cũng được “lo lấy khoan hậu vun vén đổi mới”. Tuy nhiên, người An Nam lúc mới đến chốn cung đình nhà Minh không khỏi bỡ ngỡ, vẫn còn cực kì kính sợ, “tự cho mình là người khác loài nên rất sợ hãi”. Nguyễn An nằm trong số ấy, tất yếu cũng từng trải qua lo sợ. Nhưng về khi đã dần dần thích ứng với sinh hoạt chốn cung đình, đồng thời dùng thân phận mới trong hoàn cảnh mới để học tập và tiếp thu kiến thức, về sau cùng ông đã đạt được nền tảng xuất sắc về kiến trúc. Cần chỉ ra rằng, sự thành tài của Nguyễn An và việc chú trọng bồi dưỡng nhân tài của Thành Tổ có quan hệ với nhau. Căn cứ vào Minh sử, lúc Trương Phụ lựa chọn thiếu niên tuấn tú để đưa vào cung, Thành Tổ đã thể hiện hứng thú nhất định, đồng thời đích thân khảo hạch họ, như với Phạm Hoằng nhờ “đối đáp nhàn nhã, được Thành Tổ ưa thích, dạy cho đọc sách, thạo kinh sử, giỏi viết chữ” mà được hầu hạ ở Đông cung. Minh sử tuy không ghi chép gì về việc Nguyễn An yết kiến Thành Tổ hay nói rõ ông rốt cuộc được phân đến cung nào hay bộ nào, song từ thái độ đối đãi Phạm Hoằng của Thành Tổ, có thể thấy rằng các thiếu niên xuất thân An Nam này rất được vua quan tâm, dẫn đến việc về sau Thành Tổ mệnh Nguyễn An xây dựng kinh sư như đã nói. Còn về lí do Thành Tổ lựa chọn Nguyễn An, ắt hẳn có liên quan mật thiết đến kinh nghiệm trong cung đình, sự cần cù và thiên tư của bản thân ông. Trong tư liệu thời Vĩnh Lạc, ghi chép về Nguyễn An chủ yếu nói đến công việc xây dựng thành Bắc Kinh, còn các hoạt động và trải nghiệm khác trong cung đình của ông không còn dấu vết, cả triều Hồng Hy cũng không đề cập đến. Đến cuối thời Tuyên Đức mới xuất hiện một thông tin trong sách Cô thụ bầu đàm của Lý Mặc, dẫn theo dã sử rằng: “Thái giám Nguyễn An Lưu nói, lúc Tuyên Tông băng, da thịt khô nứt như cá nướng, vì dùng thuốc tính nóng”. Nếu cho rằng “Nguyễn An Lưu” ghép từ tiểu danh A Lưu và Nguyễn An, có thể thấy rõ rằng vào lúc Tuyên Tông qua đời ông đã có khả năng được theo hầu cạnh, thì đương thời cũng có địa vị nhất định. Lúc Chính Thống đế mới lên ngôi liền ủy trách nhiệm lớn cho Nguyễn An, chỉ định ông làm người chủ chốt trong việc trùng tu thành Bắc Kinh và nạo vét sông Thông Tế, sủng nhậm cực lớn, thậm chí có ân điển là “ban Thái giám Nguyễn An, Tăng Bảo mỗi người 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấm tơ gai, 10.000 quan tiền giấy”. Năm Cảnh Thái thứ 4 (1453), Nguyễn An đã tương đối cao tuổi, nhưng Cảnh Thái đế vẫn lệnh ông trị thủy sông Trương Thu. Ông không quản tuổi cao sức yếu, chung cuộc mất dọc đường, như sách Minh Chính Thống tông chép:
“Thái giám Nguyễn An vâng mệnh trị thủy sông Trương Thu, mất dọc đường.”
Nhìn chung, cuộc đời Nguyễn An đã trải qua nhiều cung bậc thăng trầm, có phần mang màu sắc li kỳ. Lúc thiếu thời lâm vào cảnh tù binh, đến một nước xa lạ, nếm trải đủ đắng cay trong đời, sau lại bị ép làm nội thị trong cung đình nhà Minh. May thay, thái độ đối ngoại cởi mở và sự chú ý bồi dưỡng nhân tài thời Minh sơ đã cung cấp cho ông không gian học tập và môi trường phát triển cực lớn, khiến ông tiếp thu được nền giáo dục tốt, và chung cuộc trở thành nhân tài kiệt xuất về kiến trúc và thủy lợi thời Minh sơ.
Công ở một thời, lợi đến nghìn thu
Trong đa số sử liệu triều đình và sách vở thời Minh, Nguyễn An nhìn chung mang hình tượng một người “thạo mưu hoạch” và “giỏi về kĩ thuật”, như lời bình luận của Thủy đông nhật ký. Sách Đô thành lãm thắng thi hậu của Đại học sĩ thời Minh là Dương Sĩ Kỳ ra sức tán dương quy mô rộng lớn của kinh sư, gọi Nguyễn An là “trung với công việc, lo cho kẻ dưới, lại giỏi về quy hoạch.” Quốc triều hiến trưng lục của Tiêu Hoành thời Minh gọi Nguyễn An là “thanh liêm, giỏi mưu, rất tài về việc xây dựng”. Điêu đương sử giám đem Nguyễn An đặt chung vào mục “nghiên phạm”, cho rằng ông “thanh liêm trong sạch, giỏi hoạch mưu”. Qua đó đủ thấy văn nhân thời Minh đã thừa nhận và tán dương công lao xây dựng Bắc Kinh của Nguyễn An, và cũng là một góc độ khác chứng minh tính trọng yếu và đặc thù của công trình này.
Xây dựng hoàng thành là công việc cực kì trọng đại thời Minh sơ, bắt nguồn từ ý muốn dời đô đến Bắc Kinh của Thành Tổ. Thế nên việc quy hoạch và kiến thiết kinh đô phía bắc này hiển nhiên càng cấp thiết: “Từ xưa đế vương bình định thiên hạ, tất dựng chốn đô hội để làm mốc cho bốn phương, căn cứ vào hình thắng tiện lợi, chính là để làm kế an trị lâu dài vậy”. Sau khi Thành Tổ lên ngôi, nhằm tiến thêm một bước trong việc thể hiện thân phận chính thống của triều đại mình, ông đã lập nên Bắc Kinh tại “vùng đất long hưng”, đồng thời củng cố biên phòng miền bắc để ngăn ngừa các bộ lạc Mông Cổ xâm lấn về nam. Việc định đô ở Bắc Kinh vì thế là chuyện tất yếu. Tháng 7 nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Thành Tổ tiếp nhận thỉnh nguyện xây cung điện tại Bắc Kinh của các vị đại thần và Kỳ quốc công Khâu Phúc, bắt đầu bước vào xây dựng tân đô. Từ khi khởi công chính thức vào năm Vĩnh Lạc thứ 15, đến năm thứ 18 thì hoàn thành, trải qua 4 năm, nhân lực, vật lực và tiền của hao phí khó lòng kể hết. Ngay cả quy mô rộng lớn của nó cũng đã được trù tính từ đầu, thể hiện qua ghi chép Minh Thái Tông thực lục rằng Thành Tổ khiển “Công bộ Thượng thư Tống Lễ đến Tứ Xuyên, Lại bộ Hữu thị lang Sư Qùy đến Hồ Quảng, Hộ bộ Tả thị lang Cổ Bốc đến Giang Tây, Hữu phó đô ngự sử Lưu Quan đến Chiết Giang, Hữu thiêm đô ngự sử Trọng Thành đến Sơn Tây” để giám sát đôn đốc quân dân thu thập vật liệu, lại mệnh “Thái Ninh hầu Trần Khuê, Bắc Kinh Hình bộ Thị lang Trương Tư Cung đốc quân dân, thợ thuyền nung ngói”. Quy mô huy động quân dân lúc bấy giờ có thể nói là đứng đầu các công trình xây dựng thời Vĩnh Lạc. Với một công trình khổng lồ như thế, ngoài nhu cầu về nguồn lực của chính quyền và tài nguyên của địa phương ra, những nhân tài kiến trúc chuyên nghiệp cũng là điều không thể thiếu, mà Nguyễn An là một trong số đó. Trên thực tế, thực lục triều Vĩnh Lạc hoàn toàn không ghi chép về quan hệ giữa hoạn quan Nguyễn An và việc xây dựng Bắc Kinh, ngay cả Minh sử cũng đề cập rất ít. Chỉ có sách vở thời Minh ghi chép đôi chút về điều này, như Đồ thư biên khi luận về hình thế của hai kinh đô, nói rằng “lúc Thái Tông Văn hoàng đế tĩnh nan và bắc tuần, mệnh Nguyễn An xây Bắc Bình. Đấy là khởi đầu của Bắc Đô vậy”. Sách Kiến văn tạp ký của Lý Lạc nói rõ rằng “Nguyễn An, người Giao Chỉ, thanh liêm, thạo mưu hoạch, khi Thành Tổ xây dựng Bắc Kinh có công lao lớn”. Đến nay, đại đa số ghi chép của tư liệu triều đình thời Minh về những nhân vật tham dự vào công trình này đã thất lạc hoặc thành bí mật, không có cách nào kiểm tra. Trên lí thuyết có thể lần tìm dựa theo thực lục, song đều rời rạc và lẻ tẻ, không thể tường tận. Còn đại đa số sách vở do người đời sau biên tập không tránh khỏi những nhầm lẫn do tin theo lời đồn đại và phụ hội khiên cưỡng, đều không thể tin cậy tuyệt đối. Tuy nhiên, bằng cách quy nạp và tổng kết nhiều nguồn tư liệu, chí ít có thể khẳng định rằng trong giai đoạn khởi công thành Bắc Kinh thời Minh sơ, Nguyễn An tuy không nhất thiết là người gánh vác chủ chốt nhưng tất nhiên có tham dự. Đại lược có ba điểm cần nói rõ thêm:
Lúc thành Bắc Kinh chính thức được xây dựng, Nguyễn An đã khoảng 30 tuổi, ở trong độ tuổi khỏe mạnh, đã có thời gian học tập, mà công việc xây dựng kinh đô phía bắc đương thời lại rất cần nhân tài, thì sử dụng hoạn quan có tài cũng không phải chuyện lạ.
Thành Tổ trong việc đề bạt hoạn quan không câu nệ quy cách, thấy rõ từ trường hợp Phạm Hoằng hay lựa chọn Trịnh Hòa đi Tây Dương sau này, nên luôn luôn có hoạn quan xuất hiện trên vũ đài chính trị thời Vĩnh Lạc, đồng thời Nguyễn An là kẻ sĩ ngoại tịch, không dính dáng đến chuyện chính trị phức tạp, nếu được sử dụng làm đốc công cũng là tính toán sáng suốt.
Lúc Chính Thống lên ngôi liền sử dụng Nguyễn An trùng tu kinh sư, ắt hẳn phải coi trọng kinh nghiệm và tài cán của ông, cho thấy rằng Nguyễn An trước đó đã có tham gia công trình này.

Tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 19, Thành Tổ lâm triều nhận tấu chúc mừng, tại điện Phụng Thiên “mở yến tiệc lớn cho quần thần văn võ và sứ giả Tứ Di”, chính thức xuống chiếu bố cáo trong ngoài về việc định đô tại Bắc Kinh. Không may là tháng 4 năm ấy, “ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân bị cháy” chỉ vì một ngọn đuốc. Đến tháng 12 nhuận năm sau, “đêm Mậu Dần, cung Càn Thanh cháy”. Các cung điện lớn đang xây bị tổn thất rất nặng, về sau không đủ sức tu sửa. Hai triều Hồng Hy, Tuyên Đức do khó khăn về tài chính và tài nguyên, cộng thêm hao phí rất lớn từ các cuộc Bắc chinh thời Vĩnh Lạc dẫn đến trong ngoài đều mỏi mệt, nên chưa từng tiến hành tu sửa. Nhân Tông thậm chí có ý dời đô về Nam Kinh, xuống chiếu rằng “các ty ở Bắc Kinh đều gọi là hành tại”. Đến thời Chính Thống, nhờ tích lũy từ giai đoạn “Nhân Tuyên chi trị”, các thứ nguyên vật liệu đều đã đầy đủ, dư sức gánh vác các công trình lớn, nên việc trùng tu Bắc Kinh mới được đề cập đến. Năm Chính Thống thứ 1 (1436), Anh Tông mệnh “Thái giám Nguyễn An, Đô đốc đồng tri Thẩm Thanh, Thiếu bảo Công bộ Thượng thư Ngô Trung đem mấy vạn quân phu sửa sang thành và lầu ở chín cửa trong kinh sư”. Nguyệt thành và lầu gác phụ trợ đều được xếp đặt không hoàn chỉnh, đến thời Chính Thống mới bắt đầu khởi công, nên có thể coi là công trình lớn của triều đại mới này. Năm thứ 4, kinh sư, lầu gác cửa, hào quanh thành và cầu cống đều hoàn tất, “thành trì vững vàng, đáng để muôn nước chiêm ngưỡng”. Đấy chính là tiền thân của chín cửa nội thành Bắc Kinh ngày nay. Năm thứ 6, ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân và hai cung Càn Thanh, Khôn Ninh sửa xong, vua rất bằng lòng, thưởng lớn cho các vị công thần như Nguyễn An, Tăng Bảo: “Những người có công chính đều được thưởng lụa và tiền giấy có khác nhau”. Năm thứ 7, Anh Tông hạ lệnh “dựng Tông nhân phủ, Lại bộ, Hộ bộ, Binh bộ, Công bộ, Hồng lô tự, Khâm thiên giám, Thái y viện ở phía đông cửa Đại Minh, Hàn lâm viện ở phía đông cửa Trường An Tả”. Việc xây dựng phủ thự các bộ và ty này nhằm giải quyết vấn đề về quan sở. Tháng 8 năm ấy, bắt đầu xây dựng “các nha môn Tả hữu tiền hậu Ngũ quân Đô đốc phủ, Thái thường tự, Thông chính ty, Cẩm y vệ ở phía tây cửa Đại Minh, Hành nhân ty ở phía tây cửa Trường An Hữu”. Hai công việc đều hoàn thành vào năm sau. Năm thứ 10, tường thành ở kinh sự bị sụt lở, nên “mệnh Thái giám Nguyễn An, Thành quốc công Chu Dũng, Tu Vũ bá Thẩm Vinh, Thượng thư Vương Cẩn, Thị lang Vương Hựu đôn đốc thợ tu sửa”. Từ đấy về sau trong thời Chính Thống không còn lần sửa sang quy mô lớn nào nữa.
Việc xây dựng thành Bắc Kinh dưới thời Chính Thống bao gồm chín cửa, hai cung, ba điện, và công sở các ty ngũ phủ lục bộ, cùng với tu sửa thành trì ở kinh sư vào hậu kì, tổng cộng mất 10 năm. Trong đó, sáu năm đầu cực kì then chốt, có thể nói là quyết định quy mô của hoàng thành Bắc Kinh. Nguyễn An đã tham dự vào toàn bộ các công trình nói trên, và trong thời gian đó đã phát huy hết mức vai trò then chốt của mình. Ngay vào năm Chính Thống thứ 1, khi Anh Tông quyết ý trùng tu chín cửa kinh sư, thì Công bộ Thị lang Thái Tín đã nói rằng công trình này rất to lớn, “không trưng dụng 18 vạn dân thì không thể làm, các thứ phí về vật liệu cũng cao như thế”. Nhưng sau khi Nguyễn An trù hoạch, chỉ trưng dụng có hơn 1 vạn binh lính ở kinh, sử dụng vật liệu tích lũy nhiều năm trong quốc khố mà đã hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, vào năm Chính Thống thứ 5 khi xây cất ba điện hai cung, những người đảm trách gồm Nguyễn An đã nói rằng “phát hiện được thợ thuyền nào trong số 7 vạn quan quân đang thao luyện thì sai đi làm, còn các khoản vật liệu đều lựa chọn từ tích trữ trước kia, đúng theo lệ cũ mà dân không phải khổ sở”. So với thanh thế thời Vĩnh Lạc khi mới xây thành Bắc Kinh, việc trùng tu lần này đã tiết kiệm tài nguyên đến mức tối đa, đồng thời giảm thiểu phiền nhiễu cho nhân dân. Sự cần mẫn làm việc, tính toán chi li của Nguyễn An thể hiện ở đấy. Thêm vào đó, trong lúc tu sửa các công trình, Nguyễn An đã thể hiện tài năng quy hoạch và trình độ kiến trúc vượt bậc, tận mắt đo đạc ước lượng trong đầu: “Phàm các việc xây thành trì, chín cửa, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ và lấp các sông như Dương Thôn, đều tự tính toán mà thôi.”
Nguyễn An không chỉ có tài năng trên mặt quy hoạch kiến trúc, mà còn tinh thông về phương diện thiết kế thủy lợi. Ngoài việc tu sửa đường hào và cầu cống ở kinh sư, Nguyễn An vào năm Chính Thống thứ 3 lại tự đảm trách trị thủy sông Thông Tế và nạo vét các sông quanh khu vực dịch trạm Dương Thôn. Sau khi điều tra thực địa và nhận ra phương án giải quyết hữu hiệu cho một khúc sông nào, ông liền nạo vét luồng lạch thuận theo thế nước, chỉ dùng hơn 15.000 người. Sau khi công trình này hoàn tất, Anh Tông mừng rỡ ra mặt, đặc mệnh Nội các Đại học sĩ Dương Sĩ Kỳ làm bài Thông Tế hà bia ký để ghi nhớ. Thêm vào đó, vào năm Chính Thống thứ 9, Công bộ Hữu thị lang Vương Hựu đã “vâng sắc chỉ, cùng Thái giám Nguyễn An đi xem bờ sông sạt lở”. Năm thứ 14, Anh Tông mệnh “Thái giám Nguyễn An, Trần Đỉnh đi xem việc vận tải đương thủy từ Thông Châu đến Nam Kinh”. Đến năm Cảnh Thái thứ 4, Nguyễn An lại được sai đi trị thủy sông Trương Thu, khi trực tiếp đi thì mất dọc đường.
Tổng hợp những lời tường thuật trên, từ thời Vĩnh Lạc cho đến đầu thời Chính Thống, Nguyễn An đóng vai trò tương đối trọng yếu trong các giai đoạn khởi công và hoàn thiện thành Bắc Kinh. Từ thời Chính Thống về sau, Nguyễn An được trực tiếp lãnh đạo và quy hoạch việc xây dựng kinh đô, bỏ ra rất nhiều sức lực và tâm huyết. Sự trù hoạch tinh tế và tính toán chuẩn xác của ông có thể nói là đứng trên người đương thời một bậc. Nguyễn An khi phục vụ các đời đế vương đều tận trung giữ chức, bôn tẩu vì nhiệm vụ to lớn đến tận lúc chết, thực có cống hiến tương đối xuất sắc trong việc xây dựng các công trình đầu thời Minh. Các công trình kiến trúc và thủy lợi do ông đôn đốc xây dựng không chỉ có tác dụng rất lớn đương thời mà còn để lại ảnh hưởng tương đối tích cực cho hậu thế, một lần nữa chứng minh sự cao siêu của nghệ thuật kiến trúc cổ đại Trung Quốc, có thể nói là công ở một thời, lợi đến nghìn thu.
Nguyễn An và cục diện chính trị đầu thời Minh
Thời Vĩnh Lạc triều Minh, địa vị và quyền thế của hoạn quan dần dần tăng cao, ngoài công việc nội thị trong cung đình ra còn là đại diện cho hoàng đế, tham gia vào các chức vụ chuyên biệt, bao gồm giám quân, trấn thủ, chuyên chính, thu thập tài nguyên, đôn đốc lao dịch, đi sứ nước ngoài. Các đời vua về sau khi cho hoạn quan tham dự sự vụ đều dành cho họ sự bao dung và thái độ khuyến khích, nên việc Nguyễn An được sử dụng làm người đôn đốc xây dựng công trình cũng hợp với tình hình ấy. Song các hoạn quan chẳng qua chỉ là gia nô của đế vương mà thôi, bất luận có được sủng hạnh nhiều thế nào vẫn dễ dàng rơi rụng theo ngôi vua, khi chính quyền thay đổi thì cũng bại vong, như trường hợp Vương Chấn, Lưu Cẩn. Tuy nhiên, Nguyễn An trong đời đã trải qua năm triều đại từ Vĩnh Lạc đến Cảnh Thái, tuy không phải người tâm phúc của vua nhưng chưa từng bị vứt bỏ, thậm chí còn được gánh vác trọng trách xây dựng hoành thành, đủ thấy hoàng thất tín nhiệm trình độ của ông ra sao. Lí do Nguyễn An giữ được vinh hiển đặc thù ấy, thì chắc chắn không thể không kể đến tố chất giáo dưỡng, học thức tài hoa và cách xử sự vì người khác của bản thân ông, nhưng tính đặc thù của cục diện chính trị đầu thời Minh cũng cung cấp cho ông cơ hội cực lớn.
Trước tiên, xu thế ngày một lớn mạnh về quyền lực của hoạn quan thời Minh là một thời cơ lớn. Ngay từ lúc Thành Tổ khởi binh “tĩnh nan”, hoạn quan trong cung đã có công hỗ trợ truyền đạt tin tình báo, nên sau khi Thành Tổ kế vị, nhằm củng cố chính quyền và tiến thêm một bước trong việc cầm nắm triều chính, ông tất yếu phải bồi dưỡng các nội thần hầu cận có thể sai bảo. Vì thế ông không ngại sửa lời tổ huấn “nội thần không được can dự chính sự” thành “trung quan không được tự tiện điều phát”. Từ thời Tuyên Đức về sau, do sự xuất hiện của “phiêu nghi” trong Nội các, Tuyên Tông có ý đặt thêm nội thị thân tín để liên thông trong ngoài và nâng cao hiệu suất hành chính, nên “đặt Nội thư đường”, khuyến khích các quan tiểu nội thị đến đọc sách. Thậm chí, Tuyên Tông còn ban cho “bọn Kim Anh, Phạm Hoằng chiếu miễn tử”, là đỉnh cao về mức sủng hạnh mà hoạn quan triều này thụ hưởng. Chính vì Tuyên Tông khởi xướng việc nội thị được học chữ, nên khiến hoạn quan về sau “nhiều người thông thạo văn chương, hiểu chuyện kim cổ, thi triển trí xảo của mình để làm chuyện gian trá quanh vua”. Nguyễn An dành phần lớn đời mình phục vụ từ triều Vĩnh Lạc đến Chính Thống, trùng với thời kì quyền thế của hoạn quan tăng cao. Trong thời gian ấy dù Nguyễn An không có dã tâm tham gia chính sự, nhưng xu hướng coi trọng hoạn quan đầu thời Minh đã cung cấp cơ duyên chính trị giúp ông được tham gia vào việc xây dựng hoàng thành. Đặc biệt vào thời Chính Thống, Nguyễn An đã có kinh nghiệm từ lúc khởi công thành Bắc Kinh dưới triều Vĩnh Lạc, và càng tích lũy thêm qua hai triều Hồng Hy, Tuyên Đức, trong đó nhờ thể lệ cho nội thị đọc sách học chữ mà ông đã gặt hái thêm nhiều kiến thức hay, giúp ông vào lúc Anh Tông mới lên ngôi được giao mệnh chủ quan công trình trùng tu và hoàn thiện hoàng thành tại kinh sư: “Đấy là lần đầu nội thần đốc công”. Sách Khâm định lịch đại chức quan biểu thời Thanh chỉ trích việc đốc công của Nguyễn An, thừa nhận rằng khi mọi việc mới bắt đầu vốn do Công bộ toàn quyền đảm trách, nhưng nhà Minh chung cuộc đã dùng hoạn quan quản lí: “Từ đấy nội thần ngày càng lộng hành, thường xuyên dấy việc lao dịch, vơ vét của cải nhiều không đếm xuể”. Từ lời phê bình của người thời Thanh về việc đốc công của Nguyễn An, đủ thấy rằng việc nhà Minh dành thái độ khoan dung với chuyện hoạn quan nắm quyền là bắt nguồn từ tính đặc thù trong cục diện chính trị Minh sơ.
Thứ đến, thân phận ngoại tịch An Nam là một trong những chỗ dựa trọng yếu của Nguyễn An. Thời Minh sơ vì vũ lực cường thịnh nên các nước ngoại phiên Tứ Di như Cao Ly, Xiêm La thường xuyên đến chầu yết kiến, đem theo không ít hoạn quan ngoại tịch để đưa vào nội đình làm lễ vật chúc mừng. Tuân theo chủ trương “nước lớn hùng mạnh, tập hợp mọi điều”, triều đình Minh không dành sự kì thị chủng tộc nào với sĩ nhân ngoại tịch mà còn vui vẻ sử dụng họ. Trong đó những người tiếp thụ văn hóa Hán đạt nhiều thành tựu và rất được coi trọng. Hoạn quan xuất thân từ An Nam còn mang những điểm đặc biệt khác: về một mặt, An Nam đã thành quân Giao Chỉ, người An Nam và dân tộc Trung Hoa là một thể, so ra thì quan hệ khăng khít hơn các nước khác, nên đãi ngộ được hưởng tất nhiên sẽ ưu ái hơn; trên mặt khác, hoạn quan An Nam trong cung đình thời Minh sơ chủ yếu là thiếu niên do Trương Phụ bắt về từ An Nam, từ nhỏ đã làm quen với sự chăm sóc và giáo dục trong hoàng cung và nội đình, trở thành một phần tử trong cung, nên tình cảm giữa hai bên cũng khác với thông thường. Thêm vào đó, thiếu niên An Nam được tuyển vào cung đình đa phần là người tuấn tú có dạy dỗ, như Phạm Hoằng, Kim Anh, Hưng An đều nhờ thấu hiểu kinh thư, thông thạo văn học nên được trọng dụng. Tuy sử liệu không nói rõ trình độ học vấn của Nguyễn An nhưng có đề cập đến bài Doanh kiến kỷ thành thi của ông, như sách Xuân minh mộng dư lục viết: “An là người Giao Chỉ, còn tên là A Lưu, khắc bài thơ Doanh kiến kỷ”, đủ thấy rằng Nguyễn An rất có học vấn, mà có khả năng là nhờ nhiều năm học tập trong cung đình. Ngoài cảm tình thân hậu chốn cung đình ra, thân phận người An Nam còn cung cấp cho Nguyễn An những mối liên hệ nhất định. Ngay từ năm Vĩnh Lạc thứ 5, Thành Tổ đã xuống chiếu tìm kiếm người ở An Nam, lệnh Trương Phụ tìm kiếm các loại nhân tài có đức hạnh cao thượng, học vấn phong phú, giỏi giang thông đạt, “đối đãi theo lễ, đưa hết đến kinh sử dụng”. Đa số những nhân tài An Nam vào Trung Hoa này tất nhiên sẽ được giữ lại ở kinh để sử dụng, trong đó có những người được cho phép tham gia vào nội vụ cung đình, nên rất có khả năng sẽ có cơ hội giao lưu tiếp xúc với đồng hương là Nguyễn An, dần dần tạo thành bè nhóm với nhau. Trong số các triều thần ngoại tịch được chiêu mộ thời Minh sơ, Công bộ Thị lang Lê Trừng cũng là người An Nam: “tên cũ là Thương Trường, là con của ngụy Ngu quốc thượng hoàng Quý Ly, được ngụy phong làm quốc vương, vì bại trận nên bị bắt sống, nhờ giỏi dùng hỏa khí thần thương mà thăng dần đến Công bộ Thượng thư”. Minh Anh Tông thực lục cũng ghi chép về Lê Trừng vào năm Chính Thống thứ 8 rằng: “Công bộ Hữu thị lang Lê Trừng đã 70 tuổi, đủ tuổi trí sĩ, nhưng dâng sớ xin được ở lại làm việc”, đủ chứng minh rằng vào thời Chính Thống ông đã là đại thần tại Công bộ. Việc trùng tu thành Bắc Kinh chủ yếu diễn ra từ năm Chính Thống thứ 1 đến thứ 8, Công bộ lại là cơ quan tối cao về giám sát chung công trình này, vì thế Nguyễn An trong lúc thiết kế quy hoạch hẳn có qua lại thường xuyên với Lê Trừng, và được người đồng hương ra sức giúp đỡ và chiếu cố. Đúng như lời Trương Tú Dân nói: “Nhà Minh từ thời Vĩnh Lạc, Tuyên Đức về sau, quyền của thái giám càng lớn, mà thái giám đương thời có cả người Triều Tiên, Lưu Cầu và Giao Chỉ. Phái Giao Chỉ có thế lực, phàm việc nuôi nấng hoàng tử, đánh dẹp Tứ Di, quản lí thuyền buôn đều do thái giám Giao Chỉ tham gia… Trong các công trình thổ mộc và những mối lợi lớn đương thời, họ đều có nhúng tay vào. Đến như Lê Trừng làm quan Công bộ, vào thời Tuyên Đức đã thăng đến Thị lang. Nguyễn An được bọn đồng hương có thế lực che chở, nên không phải ngẫu nhiên mà thành công dễ dàng.”
Sau cùng, thái độ làm việc kín tiếng, tránh xa chính trị là cơ sở giúp Nguyễn An được an thân lập mệnh. Các đời vua Minh sơ tuy đối đãi rất thân hậu với hoạn quan gốc An Nam, nhưng vẫn thưởng phạt phân minh. Ví dụ năm Tuyên Đức thứ 6 (1431), nội quan Viên Kỳ sai bọn Nguyễn Cự Đội, Nguyễn Cáo, Vũ Mãng, Nguyễn Khả lấy cớ quyên góp để cướp đoạt của cải quân dân, sau khi lộ chuyện đều bị xử tử theo lệnh Tuyên Tông: “mệnh lăng trì Kỳ, chém bọn Cự Đội gồm 10 người”. Đấy là một trường hợp hoạn quan An Nam làm việc trái phép bị trừng trị thời Tuyên Đức. Viên Kỳ từ nhỏ đã hầu hạ Tuyên Tông, nhưng khi tham nhũng phạm pháp liền bị xử tử, hẳn là có ý cảnh cáo ngầm: “Các trung quan vì thế không dám lộng hành”. Anh Tông lên ngôi khi còn thơ ấu, bị hoạn quan Vương Chấn thao túng và xúi giục, thản nhiên thân chinh Ngõa Lạt, dẫn đến chuyện “vua gặp nạn, Chấn bị loạn binh giết”, bè đảng và họ hàng của Vương Chấn cũng bị xử tử liên đới. Về sau trong quá trình thay đổi chính quyền thời Anh Tông và Cảnh Tông, hai hoạn quan Kim Anh, Hưng An tuy có quyền lớn một thời nhưng cũng không tránh khỏi vướng vào thời cuộc. Cả hai bị cuốn vào cuộc tranh đấu giữa hai vị vua này, sự sống chết vinh nhục đều can hệ đến hưng phế của quân chủ, khó lòng dùng mỗi tài năng để cứu thân. Riêng Nguyễn An cả đời dốc sức vào sự nghiệp kiến trúc và thủy lợi, vừa không lộng quyền, lại không tham ô. Xét Thủy đông nhật ký, Nguyễn An đã “ngày thường được ban gì đều đem cho, là vị quan đứng trên tài lộc, không giữ lại một chút gì”, đến lúc qua đời trên người chỉ có chưa được 10 đồng. Tránh khỏi sự tham ô, hủ bại thịnh hành vào thời Minh cơ hồ là điều bất khả thi, đã thế Nguyễn An lại đứng giữa trung tâm quyền lực, gánh vác việc xây dựng kinh sự, thì càng khó khăn nữa. Nhưng Nguyễn An thanh liêm đến vậy, thì ngoài nhờ giữ gìn đạo đức cao thượng của bản thân, còn nhờ việc tỏ rõ tấm lòng với các vua và tận trung nghe mệnh. Chính vì Nguyễn An biết giữ vững bản thân suốt nhiều năm, không đoái hoài tới danh lợi, cả đời không ngại gian khổ, nên mới được hai vua Vĩnh Lạc, Tuyên Đức thưởng chức vinh hiển, lập nên sự nghiệp hiếm có trong việc xây dựng thành Bắc Kinh. Xem khắp sử liệu thời Minh-Thanh, phần ghi chép về Nguyễn An chỉ nói đến hai việc xây dựng kinh sư và chỉnh lí thủy lợi, không đề cập đến điều gì khác, cũng không chép chuyện ông từng tham ô trái phép, thì có thể thấy được thái độ chính trị cẩn thận kín tiếng, giữ mình khi làm việc của ông. Có thể giải thích điều này rằng vì Nguyễn An có công lớn hiếm thấy trong sử sách, văn nhân và sĩ đại phu đã dành cho ông rất nhiều lời ca ngợi, lấy làm ví dụ về quan nội thị hiền lương, đứng ngang hàng với những Kim Anh, Hoài Ân, Đơn Cát. Triệu Trinh Cát thời Minh luận rằng:
“Triều trước có Kim Anh can ngăn việc dời đô về nam, Hoài Ân xin bãi chức truyền phụng, Nguyễn An không bỏ túi của công, Đơn Cát khuyên nhủ việc điền trang, đều lập công vẻ vang, đến nay còn khen ngợi”.
Nói tóm lại, việc Nguyễn An tham dự và gánh vác công trình xây dựng thành Bắc Kinh có tương quan mật thiết đến hoàn cảnh chính trị Minh sơ. Một là, dựa vào sự ỷ lại và coi trọng hoạn quan của các đời vua, hoạn quan ngày càng dấn sâu vào hoạt động chính trị, đưa địa vị và quyền thế của mình tăng cao dần; trong xu thế đấy, Nguyễn An khi được mệnh đôn đốc xây dựng chỉ cần thi triển hết tài của mình mà thôi. Thứ hai, thân phận ngoại tịch An Nam đã giúp Nguyễn An có được một số cảm tình và liên hệ với hoàng thất, đồng thời lại mở rộng được những mối liên kết khác, tiện lợi để làm việc trong cung. Ngoài ra, Nguyễn An trong hoàn cảnh chính trị đế vương thay ngôi, hoàng quyền đổi chủ vẫn giữ vững đầu óc tỉnh táo, không để mình bị cuốn vào vòng xoáy chính trị. Thái độ làm việc thanh liêm, tự giác khiêm tốn là nhân tố quan trọng giúp ông được các đời vua thưởng chức và trọng dụng. Có thể thấy rằng hoạn quan nếu muốn đạt được thành tựu trong chốn cung đình, thì không những cần đến con mắt sáng suốt của quân chủ, mà sự tu dưỡng tố chất của bản thân họ cũng rất quan trọng. Ngoài ra, trong cục diện chính trị biến đổi, cần phải cẩn thận về lời nói và hành động, cân nhắc tránh xa những tranh đấu chính trị. Có như thế, hoạn quan mới có thể an thân lập mệnh, có khả năng kiến công lập nghiệp.
Comments