Công trình kiến trúc mỏng manh bằng gỗ, ván, đinh, vải, mượn từ nhân dân ấy chỉ tồn tại trong vài giờ rồi biến mất khỏi mặt đất, nhưng nó đã lưu giữ trong mình khúc hùng ca của dân tộc anh dũng.
Vào thập niên 1920, tại Chính Tây Môn, tức là khu vực cửa Tây thành Thăng Long thời Nguyễn, một vườn hoa hình tròn đã được xây dựng trên quảng trường rộng lớn, gọi là Rond point Puginier. Đầu tháng 8/1945, bác sĩ Trần Văn Lai - Đốc lí Hà Nội cho đổi gọi là Vườn hoa Ba Đình và Quảng trường Ba Đình.
Đúng 14 giờ ngày 2/9/1945, hơn 1 triệu đồng bào Hà Nội và vùng phụ cận đã về quảng trường Ba Đình để dự lễ Độc Lập. Trên Lễ Đài dựng ở giữa vườn hoa có các vị trong Chính phủ lâm thời. Sau lễ Chào cờ, Hồ Chủ tịch đọc bản ‘Tuyên ngôn Độc Lập’, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại
Lễ Đài đã được dựng như thế nào? Trong khoảnh khắc chớp nhoáng của lịch sử theo đúng nghĩa đen - chỉ có vài chục giờ chuẩn bị - người kiến trúc sư lão luyện nào có thể vẽ nên một bản thiết kế cho giờ khắc được cả dân tộc Việt Nam chờ đợi và gọi tên sau cả trăm năm như thế?
Ông Ngô Huy Quỳnh nhớ lại: “Sáng 1/9/1945, tôi đang làm việc ở Văn phòng thì thấy ông Phạm Văn Khoa hoạt động trong tổ chức Văn hoá Cứu quốc (sau này là Đạo diễn, Cục trưởng Cục Điện ảnh đầu tiên) đến truyền đạt yêu cầu của Kì bộ Việt Minh về việc thiết kế Lễ Đài để chiều mai Hồ Chủ tịch đọc bản ‘Tuyên ngôn Độc Lập’ và Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào tại vườn hoa Ba Đình.”
Ông phấn khởi nhận lời. Lập tức đạp xe đến vườn hoa Ba Đình khảo sát, để kịp 12 giờ trưa ông Phạm Văn Khoa sẽ quay lại xem bản vẽ. Đến nơi, ông đứng ngắm toàn cảnh vườn hoa Ba Đình, khảo sát tổng thể địa điểm, mặt bằng, những hình khối xung quanh vườn hoa có liên quan. Gần trưa ông quay lại Văn phòng trình 3 bản vẽ, để ông Khoa cùng một số thành viên trong Hội Văn hoá Cứu quốc (Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Ngọc Lợi, Ba Hương) xem xét. Mọi người quyết định chọn bản vẽ thứ nhất, bởi đó là bản vẽ đơn giản nhưng lại đẹp và phù hợp nhất. Ông đem bản vẽ được chọn đó đến dự cuộc họp chuẩn bị cho ngày lễ. Tự tin giới thiệu bản thân mình, và bản vẽ. Bản vẽ thể hiện rõ Lễ Đài trong tổng thể Vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng Lễ Đài, cùng chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát, ...
Theo nhà văn Phùng Quán ghi lại, sau khi nghe kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh thuyết trình, ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng Ban Tổ chức đã xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế và đóng dấu Ban tổ chức.
Vào lúc 12 giờ 39 phút ngày 1/9/1945, Lễ Đài bắt đầu được thi công. Nơi dựng là khu vực bồn cỏ tròn ở phía trước các cổng cuốn tròn trên hệ thống cột kiến trúc theo kiểu Toscan (Pháp). Trước đó, ông Quỳnh đã tranh thủ đo lại kích thước cổng cuốn và hàng cột kiểu thức Toscan này, để xác định khuôn khổ thích hợp của Lễ Đài trong không gian rộng lớn xung quanh. Ông cũng trực tiếp tham gia Ban Tổ chức thi công.
Ông Quỳnh cùng ông Phạm Văn Khoa đến gặp ông Quyến là thợ mộc lành nghề ở phố Hàng Hành. Xem qua bản vẽ, ông Quyến tính toán số khung, số ván, số đinh và một số vật liệu khác để Ban Tổ chức chuẩn bị. Nhưng lấy đâu ra gỗ đây? Thế là các ông lại đi dọc các hàng trên phố Hàng Hành để mượn gỗ, các ông chủ gỗ đều vui vẻ: “Các anh muốn lấy thứ gỗ nào cứ lấy. Nếu có cần phải xẻ cũng được !”(*). Đến các cửa hiệu ở chợ Đồng Xuân để mượn vải, các chủ hiệu vui vẻ đưa ra mấy cuộn vải nhung màu đỏ.
Ngay trong đêm, Sở Liêm phóng Bắc Bộ đã triển khai lực lượng bảo vệ tại khu vực vườn hoa Ba Đình và các điểm chốt dọc Phan Đình Phùng. Những người thợ mộc làm việc miệt mài và hăng say. Trong lúc đó, ông Ngô Huy Quỳnh chăm chú nhìn hệ thống chống đỡ bục Lễ Đài - một kết cấu buộc phải chắc chắn để chống đỡ khối lượng trên 2 tấn. Mặc dù các ông chủ gỗ nói rằng có thể xẻ gỗ ra nếu cần, nhưng ông đã quyết định chôn chân các cột cờ và trụ lễ đài xuống đất, tiết kiệm gỗ lại không phải cưa, mà vẫn tạo một thế vững chắc cho Lễ Đài.
Khi Lễ Đài vừa được dựng lên, anh em trong Ban Khánh tiết bọc vải, ken hoa và chuẩn bị hệ thống âm thanh. Ông Nguyễn Dực, chủ hiệu sửa chữa radio Hàng Bài, được giao phụ trách mắc mic-rô trên Lễ Đài cùng hệ thống loa phóng thanh quanh vườn hoa Ba Đình và các phố lân cận. Lễ Đài được hoàn thành trước rạng đông ngày Hai tháng Chín.
“Chúng tôi không chú ý là cả một đêm trắng đã qua nhanh chóng,” ông Ngô Huy Quỳnh sau này kể lại.
Lễ Đài cao hơn 4 mét, trên đó có một cột cờ cao hơn 10 mét. Công trình có cấu trúc bốn mặt hình thang phủ vải đỏ, ở giữa có hình ngôi sao năm cánh. Trên thành Lễ Đài phủ vải vàng. Hai bên có hai lư hương lớn bằng gỗ. Khói trầm từ các lư hương lớn hai bên lễ đài bay lên cao, gợi những ý tưởng thiêng liêng, thong thả toả rộng.
Ông Ngô Huy Quỳnh viết trong hồi kí: “Khi buổi lễ đang diễn ra, phía trước là đông đảo đại biểu nhân dân hừng hực khí thế dưới cờ đỏ sao vàng tràn ngập Ba Đình, tôi tự ý một mình đứng bên dưới Lễ Đài, quan sát những điểm chịu lực của kết cấu khung gỗ, và một mình trong không gian màu đỏ dưới bục Lễ Đài, tự thấy mình lực lưỡng hơn về trí tuệ và tình cảm khi đứng dưới chân Bác.”
Tìm kiếm bản sắc Việt
Thiết kế Lễ Đài Độc Lập là nhiệm vụ giao đúng người, đúng thời khắc lịch sử và lưu lại trang trọng trong kí ức dân tộc Việt Nam ta. Nhưng Lễ Đài này chỉ là một trong số những dấu ấn thiết kế mà kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh để lại cho chính mình và những người thế hệ sau bước tiếp. Trước khi thiết kế Lễ Đài Độc Lập, ông đã có những công trình thiết kế nổi tiếng dựa vào vốn văn hóa của dân tộc, mà tiêu biểu trong số đó là ngôi nhà ở số 84 phố Nguyễn Du. Khi đó ông còn là sinh viên năm 3 trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương. Ông được hoạ sĩ Hoàng Tích Chù giới thiệu cho ông chủ ngôi nhà này - một người quê ở làng Đình Bảng. Lúc bấy giờ, những vị giáo sư người Pháp cho rằng: “Chỉ có nền văn hoá Chinois ét Anamite (lai Tàu và Việt) thôi, chứ không tồn tại một nền văn hoá Việt Nam thực sự!”
Không tin vào điều đó, ông cho rằng người Việt Nam phải có nền kiến trúc Việt Nam, và đây sẽ là cơ hội để ông thiết kế một ngôi nhà mang bản sắc của người Việt. Ngôi nhà 84 Nguyễn Du ra đời, thấp thoáng nét uốn lượn của mái đình, mái chùa làng quê Việt Nam, với những đầu đao mái ngói, cấu tạo mái cong. Căn nhà thông thoáng nhờ những ô cửa lấy sáng, lấy gió, tạo nên tổng thể mang tính Á Đông kín đáo, hòa hợp, phảng phất hồn quê.
Dường như có duyên với những kiểu công trình nhanh chóng, “biến mất chỉ sau một đêm”, ông được Đảng giao nhiệm vụ thiết kế Khu nhà ở và Hội trường Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ V, khu phục vụ Đại hội lần thứ II của Đảng, vẫn đảm bảo yêu cầu đẹp, tiện lợi, ngoài ra phải thông thoáng để có thể theo dõi địch từ xa, ông đã sử dụng vật liệu tre, nứa, lá, gỗ đơn sơ, với phương pháp mà những người dân trên vùng cao lâu nay vẫn dùng để xây nhà.
Năm 1951, một bước ngoặt đã đến. Dưới bóng cây ở Tân Trào (Thái Nguyên), kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh cùng 20 cán bộ được Bác Hồ và Trung ương Đảng cử sang Liên Xô nghiên cứu bậc Trên Đại học, chuẩn bị cho công cuộc Kiến thiết đất nước sau giải phóng. Đó là số trí thức đầu tiên được đào tạo tại nước ngoài. Hoạ sĩ Ngô Thành Nhân, con trai của kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh kể lại:
“Vì là nhiệm vụ bí mật, nên cả nhà tôi lúc đó không ai biết. Phải hơn một năm sau có thư gửi về từ Liên Xô, cả nhà mới ngã ngửa ra cả năm qua bố mình ‘mất tích’ ở đâu!”
Trong thời gian từ tháng 1/1951 đến tháng 7/1955, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh đã hoàn thành Luận án bằng tiếng Nga về đề tài ‘Theo hướng khai thác truyền thống kiến trúc dân tộc Việt Nam để lập đồ án quy hoạch đô thị, trên cơ sở kinh nghiệm Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên’.
Từ sau khi kiến trúc sư Ernest Hébrard và những kiến trúc sư khác tạo nên phong cách kiến trúc Đông Dương kết hợp văn hoá Đông - Tây trên khía cạnh kiến trúc thời thuộc địa, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh có lẽ là người đầu tiên đặt nền tảng về lí luận cho “bản sắc Việt” trong kiến trúc - quy hoạch đô thị Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Kiến trúc sư Vũ Hoài Đức, Phó phòng Nghiên cứu phát triển, Viện Quy hoạch Xây dựng Hà Nội, cho biết: “Giờ đây, chúng ta có thể thấy hình ảnh vươn lên của mái đao, của hàng cột trong kiến trúc đình, chùa Việt Nam ở Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó chính là kết quả của những góp ý mà các thế hệ kiến trúc sư Việt Nam trong đó có kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh đưa ra, đối với phương án thiết kế do Liên Xô giúp đỡ. Những mái đao, hàng cột này là sự giao hoà của truyền thống Việt vào các kiến trúc mang phong cách xã hội chủ nghĩa. Và trùng hợp thay, khi chính tại đây - nơi ông để lại tên tuổi gắn với Lễ Đài mà ông đã thiết kế dựng xây - những người cùng thế hệ ông vẫn tiếp tục lưu lại dấu ấn của mình cho mai sau, như một lời nhắc nhở về bản sắc dân tộc trong dòng chảy thời đại.”
Trở về nước năm 1955, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh tập trung vào lĩnh vực mà mình được đào tạo - Quy hoạch đô thị. Đề xuất quy hoạch xây dựng nông thôn, định hướng phát triển Hà Nội trong tương lai. Nhưng, ông vẫn tranh thủ thời gian tìm đến những bảo tàng, đình chùa, các vùng đất xa xôi để học hỏi phương pháp xây nhà truyền thống. Những ngày tháng rong ruổi đã mở ra cho ông một cái nhìn mới mẻ về nghệ thuật kiến trúc truyền thống: Từ mái nhà tranh cổ truyền ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đến nhà rường ở miền Trung, … Trong những chuyến đi như thế, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh đã học được cách xây nhà trình tường của người dân vùng biên giới. Về sau, ông đã truyền lại cách xây nhà vững chãi mà không cần xi-măng này cho những kiến trúc sư ở Angola xa xôi.
Đau đáu về bản sắc dân tộc, điều này có lẽ đã tạo nên một KTS nặng lòng với việc bảo tồn văn hóa truyền thống, không chỉ trong kiến trúc mà còn cả trong lĩnh vực Quy hoạch đô thị đầy phức tạp và rộng lớn. “Năm 1959, KTS Hoàng Như Tiếp và Ngô Huy Quỳnh, với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô đã lập đồ án Quy hoạch xây dựng Thủ đô. Đây là Đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đầu tiên, của một đất nước độc lập tự cường. Ở đồ án đó, vấn đề "Bảo tồn Khu phố cổ Hà Nội" đã được đặt ra. Hơn 60 năm đã qua, giờ đây khi nhìn lại chúng ta mới nhận ra được tầm nhìn và tầm vóc của đề xuất đó.
Nhớ về người thầy của mình, PGS-TS-KTS Tôn Đại kể lại:
“Ông là một người hóm hỉnh, dễ tính, xuề xoà. Một lần ông nói với lớp sinh viên chúng tôi ‘tôi còn đủ sơn dầu để vẽ đến cuối đời’. Rồi ông tủm tỉm cười ‘vì bây giờ không có thời giờ, không biết vẽ vào lúc nào cả!’”
Nói như vậy, bởi càng lớn tuổi, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh càng dành phần lớn quỹ thời gian của mình vào việc soạn thảo Chương trình giảng dạy, trực tiếp đứng lớp tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Và như thế, những cuốn sách lí luận và lịch sử trong và ngoài nước do ông viết đã ra đời, có thể kể đến ‘Xây dựng bằng vật liệu tại chỗ vùng dân tộc ít người’, ‘Lịch sử kiến trúc Việt Nam’, ‘Kiến trúc cổ đại châu Á’, ‘Lịch sử kiến trúc Việt Nam - Lào’, ‘Kiến trúc nông thôn Việt Nam’.
Với vai trò là một thầy giáo, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh đã đào tạo ra nhiều thế hệ kiến trúc sư ở Việt Nam. Là một kiến trúc sư, ông đã để lại những công trình thiết kế như: Biệt thự ở phố Cao Đạt, Những ngôi nhà ở Nam Định, Bắc Ninh. Là một nhà quy hoạch, ông là tác giả đồ án Quy hoạch xây dựng Thủ đô, Quy hoạch bảo tồn phố cổ, Quy hoạch thành phố Khang Khay - thủ phủ Liên hiệp dân tộc Lào.
Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh ra đi ở tuổi 84 (năm 2003). Với hơn 60 năm tuổi nghề, tên tuổi của ông sẽ đi kèm cùng với những danh xưng như “Người đặt nền móng”, “Người tiên phong”. Nhưng với ông, cả một đời khiêm nhường, hẳn chỉ mong là người gạn đục khơi trong bản sắc văn hoá Việt giữa những nhập nhằng xưa cũ, trong một nền kiến trúc non trẻ đang tìm kiếm căn tính văn hoá của mình ở buổi giao thời.
Hoạ sĩ Trịnh Hữu Ngọc (1912 - 1997) chủ xưởng MÉMO Ébénisterie - Nhà trang trí nội thất và làm đồ gỗ hiện đại đầu tiên ở Việt Nam, đảm nhiệm toàn bộ việc thi công. Ông đã mang vật liệu và cùng các cộng sự cống hiến công sức tạo dựng nên Lễ Đài này.
Comments