top of page
​AD

"Kẻ" Là Gì? Những "Kẻ" Ở Xung Quanh Khu Vực Hà Nội

Hòa Nguyễn
Trước đây, khoảng thập niên 60-70 đổ về trước, trong sinh hoạt đời thường ở Hà Nội ta hay nghe thấy những câu: ông ấy người kẻ Bưởi, bà ấy người kẻ Mọc, hay: nghe giọng nói cũng biết các chị là người kẻ Noi.....

Cổng làng Hồ Khẩu thuộc kẻ Bưởi.

Ngày nay những câu đó ít còn thấy trong dân gian, từ "Kẻ" dần bị mai một và nhiều người không hiểu "Kẻ" là gì.

"Kẻ" là từ chỉ một khu vực, một vùng đất tương đương với đơn vị hành chính như làng, xã. Những địa danh có kèm theo tiếng “Kẻ” này đa phần là vùng đất cổ của nước ta. Một đặc điểm là ở mỗi vùng được gọi là "Kẻ" thì dân cư ở đó có chung những phong tục, tập quán, tín ngưỡng và thường là chuyên sản xuất một mặt hàng nào đó hay những món ẩm thực nào đó.



Hà Nội từ xưa là nơi có nhiều “Kẻ” nhất. Trong khi “Kẻ” ở nhiều nơi không còn được nhắc tới thì “Kẻ” ở Hà Nội đôi khi vẫn tồn tại đến ngày nay.

"Kẻ" được xem như một đơn vị địa danh, tập trung nhiều nhất ở phía bắc Hà Nội, gắn với những tên Nôm như Kẻ Chèm, Kẻ Vẽ, Kẻ Xù, Kẻ Gạ... Từ Kẻ Chèm dịch về phía nam là Kẻ Noi, Kẻ Giàn, Kẻ Cáo, Kẻ Bưởi; về phía tây có Kẻ Đăm, Kẻ Nhổn; mở rộng thêm là Kẻ Đáy (Kẻ Mọc), Kẻ Lủ, Kẻ Đơ (Triều Khúc)....


Cổng làng An Thọ thuộc kẻ Bưởi.

Từ thời Minh Mạng nhà Nguyễn, tên Nôm gắn liền với tiếng “Kẻ” được chuyển sang tên chữ. Kẻ Chèm thành làng Thụy Phương, Kẻ Vẽ thành Đông Ngạc, Kẻ Noi thành Cổ Nhuế, Kẻ Xù thành Phú Xá, Kẻ Gạ thành Phú Gia, Kẻ Bưởi vì rộng nên chia thành Trích Sài, Yên Thái, Bái Ân....



Ở phía nam Hà Nội, số “Kẻ” ít hơn, nay chỉ còn đôi ba “Kẻ” được ghi nhận mà rõ nhất là Kẻ Mơ, gồm các làng Hoàng Mai, Hồng Mai, Tương Mai và Mai Động.


Sự thưa thớt “Kẻ” ở phía nam Hà Nội là bởi vài nghìn năm trước biển lấn vào sâu nên vùng này hầu như không có làng cổ tức là không có những "Kẻ". Khu trung tâm là nơi giao thương buôn bán sản vật của các kẻ xung quanh, được gọi chung là Kẻ Chợ. Như vậy là vùng đất khi chưa có tên là Đại La, là Thăng Long, là Hà Nội thì đã là Kẻ Chợ.


Người nước ngoài đến Việt Nam, khi nói đến kinh thành Thăng Long, hay thành phố Hà Nội vẫn có người gọi là Ke - Cho (Kẻ chợ).

Ngoại thành Thăng Long xưa có một số “Kẻ” nổi tiếng, trước hết là Kẻ Chèm. Tiếng “Chèm” ghi và đọc theo tiếng Việt cổ là “T’lèm”, khi chuyển sang âm Hán Việt là Từ Liêm. Từ cách cắt nghĩa theo lối chiết tự như vậy, có thể xem Kẻ Chèm là trung tâm của Từ Liêm cổ.


Không những vậy, Kẻ Chèm còn có nhân vật được dân gian và sử sách lưu truyền là nhà ngoại giao đầu tiên của nước Việt cổ, người duy nhất được nhiều triều đình Trung Quốc suy tôn, thờ cúng, đó là Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng. Ông được người dân tôn thờ là Thành hoàng làng từ hơn 2.000 năm nay.



Năm 2017, đình Chèm - nơi thờ ông, được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.


Cổng làng Yên Thái thuộc kẻ Bưởi.

Ngoài Kẻ Chèm được xem như trung tâm của Từ Liêm cổ, các kẻ khác đều có những đặc điểm nổi bật như Kẻ Vẽ là làng có truyền thống khoa bảng, đứng đầu khu vực kinh kỳ với 9 vị Tiến sĩ, Phó bảng và 42 Cử nhân (theo thống kê thời Nguyễn). Kẻ Giàn là vùng đất màu mỡ có tiếng, “Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ”.

Mỗi “Kẻ” bao quanh trung tâm Hà Nội đều có nghề cổ truyền với những sản phẩm truyền thống, tạo nên danh tiếng Kẻ Chợ cho Thăng Long - Hà Nội. Các “Kẻ” này góp phần đưa Kẻ Chợ thành trung tâm giao thương sầm uất, đủ sức bang giao với các địa phương và các nước khác. Mỗi “Kẻ” đều có những nghề đặc trưng với sản phẩm nổi tiếng đã đi vào ca dao như:


“The La, lĩnh Bưởi, sồi Phùng/ Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ bên”..



Cổng làng Đông Xã thuộc kẻ Bưởi.

Kẻ Chèm còn có nghề làm giò chả. Từ xa xưa, giò Chèm được xếp vào danh sách những sản phẩm nổi tiếng thiên hạ. Do cách chế biến kỹ càng, tinh xảo nên giò Chèm không chỉ ngậy, dẻo, thơm mùi nước mắm nguyên chất mà còn thấy được hạt lựu trong miếng giò. Nem chạo Kẻ Vẽ cùng với giò Chèm được chọn là cặp sản phẩm ẩm thực danh tiếng “giò Chèm, nem Vẽ” tiến vua. Ngoài sản phẩm nem, Kẻ Vẽ nổi tiếng với nghề làm chum vại và những mặt hàng chế biến từ mây (quang gánh, bàn ghế). Đầu thế kỷ XX, Kẻ Vẽ còn có nghề đan mũ bằng nan giang.

Nằm sát ở phía Tây Bắc kinh thành Thăng Long, Cổ Nhuế xưa là vùng sình lầy, cư dân rất thành thạo lội ngòi, noi nước, sinh sống, canh tác. Thế nên sau này, khi buôn bán, giao thương phát triển thì cũng như các vùng đất lân cận khác, người ta gọi tên nôm của làng là Noi. Cũng như các khu cư dân cổ khác của Hà Nội xưa thì Noi được gọi là Kẻ Noi. Kẻ Noi (Cổ Nhuế) lại nổi tiếng với nghề may. Nghề này được một người họ Nghiêm mang về từ giữa thế kỷ XIX, sau đó phổ cập thành nghề truyền thống của làng. Năm 1935, Kẻ Noi có hơn 300 hộ làm nghề may. Sản phẩm của Kẻ Noi có mặt khắp thị trường trong và ngoài nước.

Kẻ Bưởi là “quê hương” của giấy sắc và vải lĩnh. Kẻ Giàn với lợi thế là vùng đất màu mỡ cùng tay nghề khéo léo của người dân đã trở thành trung tâm sản xuất mứt, kẹo mỗi khi Tết đến, xuân về. Kẻ Vòng có đặc sản cốm Vòng làm đắm say bao thực khách. Kẻ Đơ (Triều Khúc) nổi tiếng với các sản phẩm dệt thao. Kẻ Mơ (Mai Động) có sản phẩm đậu nổi tiếng kinh kỳ. Kẻ Gạ có nghề thổi xôi đến nay vẫn chinh phục khách hàng kỹ tính...


Vùng Nhân Mục xưa có tên nôm là Kẻ Mọc. Theo Quốc sử tạp lục thì hồi thế kỷ X, các làng Mọc đều có rừng, vậy mới có tên là Kẻ Mọc, tên chữ là Mộc Cự, sau đổi là Nhân Mục. Xã Nhân Mục dân số ngày càng đông, phát triển thành 2 xã là: Nhân Mục Cựu (gồm 2 thôn Thượng Đình và Hạ Đình) và Nhân Mục (gồm các thôn Quan Nhân, Cự Lộc, Chính Kinh, Giáp Nhất, Phùng Khoang).

Những “Kẻ” - làng nghề nổi tiếng kinh kỳ xưa đang ít nhiều bị mai một. Đó là lẽ tự nhiên của sự phát triển, tuy nhiên, cần có những giải pháp bảo tồn khả thi để giữ lại hồn cốt Thăng Long - Hà Nội. Đó cũng là cách giữ gìn, trao truyền để các thế hệ sau thêm hiểu và tự hào về mảnh đất kinh kỳ với bao sản vật lừng danh.



Khảo cứu và biên soạn bởi Viet Cuong Sarraut.

Comments


Không bao giờ bỏ lỡ bản tin mới

Đăng ký nhận thư từ Ngoài Kia

Cảm ơn bạn. Chúng tôi sẽ liên hệ sớm.

bottom of page